Cuộc đời và hình ảnh đức phật thích ca

Vào ngày rằm tháng 4 năm 624 trước công nguyên, tại vườn Lâm Tỳ Ni gần thành Ca Tỳ La Vệ, nơi hiện giờ là vùng biên thuỳ giữa Nêpan và Ấn Độ, Đức Phật đã giáng sinh. Ngài là con vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da. Lúc này, vua Tinh Phạn trị vì một vương quốc nhỏ của bộ tộc Thích Ca. Khi Đức Phật vừa chào đời, với 7 đóa sen đỡ bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà rằng: "Thiên thượng nhân gian, duy ngã độc tôn" (Trên trời dưới đất, chỉ có trí óc siêu phàm của bậc Giác Ngộ mới là tôn quý).

Vua cha rất yêu quý Thái tử, làm lễ đặt tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Cồ Đàm. Vì dòng tộc này thuộc bộ tộc Thích Ca nên sau này Ngài có danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni (có tức là bậc Thánh của bộ lạc Thích Ca). Thái tử có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của thánh nhân.

Ngày Thái từ chào đời là ngày hội vui lớn của toàn vương quốc. nhân dân xa gần kéo về đế kinh Ca Tỳ La Vệ ăn mừng. Một vị đạo sư già tên là A Tư Đà từ nơi ông tu hành trên núi Himalaya đã đến cung vua để chào mừng và xem tướng hoàng thái tử. Gặp Thái tử, đạo sĩ bỗng dưng chắp tay vái chào với thái độ khôn xiết kính cẩn. Đạo sĩ tuy cuời mà vẻ mặt thoáng buồn. Được hỏi cơ vì sao, vị đạo sĩ đáp là ông mừng vì hoàng thái tử tương lai sẽ thành Phật, nhưng ông buồn vì ông tuổi đã quá cao, ắt phải tắt thở mà không được vị Phật ngày mai trực tiếp giáo huấn, giác ngộ.


Thái Tất Đạt Đa được nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục một cách toàn diện cả về văn học và võ nghệ. Sách kể rằng, chỉ trong khoảng thời kì từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thuộc 5 môn học trên dương gian và 4 sách Thánh Veda. Đến năm 13 tuổi, hoàng thái tử bắt đầu học võ thuật. Nhờ có sức khỏe phi thường, Ngài học môn võ gì cũng giỏi.

Năm 17 tuổi, hoàng thái tử sánh đôi cùng công chúa Da Du Đà La xinh đẹp và hạ sinh được một người con trai đặt tên là La Hầu La. Trong gần 13 năm, sau ngày cưới, hoàng thái tử sống một cuộc đời hạnh phúc trong nhung lụa, vô tư lự, không biết gì tới mọi nỗi khổ và xấu số ở đời.

Thế nhưng, với thời kì, do khiếu suy tư sâu sắc và lòng thương người bẩm sinh, tuy sống trong cung vàng điện ngọc nhưng lòng Thái tử luôn đau đáu những ngẫm ngợi về lẽ vô thường của hạnh phúc.

Một ngày nọ, hoàng thái tử đi ra ngoài thành dạo chơi và lần trước nhất trong đời được tiếp xúc với những sự thật mờ ám và đáng sợ. Thái tử lần lượt gặp một người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và chung cuộc là một vị tu sĩ với dung sắc giải thoát, thong dong đi trên đường. Thái tử nghiệm thấy mình dù là hoàng thái tử con vua cũng không thể thoát khỏi cảnh già, đau, và chết. Những hình ảnh siêu thoát của vị tu sĩ đã giúp hoàng thái tử sớm thấy được con đường dẫn đến giác ngộ, vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi đau khổ và bất hạnh của đời người. Từ đó, hoàng thái tử nuôi dưỡng quyết tâm xuống tóc cầu đạo.

Giữa khuya mùng 8 tháng 2, Thái tử cùng người hầu Xa Nặc cưỡi ngựa Kiền Trắc, vượt dòng A Nô Ma, cố chí xuống tóc tầm đạo, cứu độ chúng sinh thoát khỏi sinh - lão - bệnh - tử và mọi nỗi bất hạnh khác của đời người.

Thời bấy giờ, ở Ấn Độ có tập tục và niềm tin rằng, người nào cầu đạo đánh tháo, đều phải kiên trì tu khổ hạnh, ép xác. Cũng theo truyền thống đó, hoàng thái tử đã có get more info 6 năm khổ hạnh nơi rừng già, mỗi ngày chỉ ăn 1 hạt mè, 1 hạt gạo, kiên trì khổ hạnh ép xác tới mức con người gầy khô như bộ xương, đôi mắt sâu hoẵm, sức khỏe sút giảm không còn đi vững. chung cuộc Ngài nghiệm ra rằng, càng bền chí khổ hạnh, chân lý tối hậu như càng lùi ra xa, tâm trí càng mê mờ, cơ thể càng suy yếu. Ngài thấy rõ, khổ hạnh, ép xác không phải là con đường thoát khổ và cứu khổ.

hoàng thái tử quyết định ăn uống thông thường trở lại, sau đó suốt 49 sớm hôm ngồi yên tu tập, bền chí, phấn đấu và cuối cùng đã giác ngộ, thành Phật dưới gốc cây Bồ đề. Như vậy, sau 6 năm gian khổ, kiên trì không mệt mỏi, vào năm 35 tuổi, Thái tử Tất Đạt Đa đã trở nên Đức Phật.

Sau khi chứng quả, Đức Phật phát xuất đi giáo hóa chúng sinh. Ngài đã độ hơn ngàn đồ đệ. Trên đường giáo hóa, sau khi Đức Phật thọ nhận buổi cúng dường của người thợ rèn Thuần Đà, Ngài bảo với đại chúng: "Đây là buổi thọ trai rút cuộc của Như Lai trên nhân gian này". giây khắc sau, Phật hiện tướng bệnh tật để nhắc nhỏm các hàng môn đồ không nên quên sự vô thường trong cuộc sống.

Hơn 49 năm độ sinh thuyết pháp, từ vườn Lộc Uyển cho đến thành Câu Ty Na, trước lúc vào tịch diệt nát bàn, Đức Phật khai thị cho chúng môn đệ lần cuối cùng: "Phải nương theo pháp giới làm thầy, hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi".

Sau những lời di ngôn căn dặn đại chúng đường hướng tu hành, Đức Phật nằm nghiêng bên phải, an tường vào đại định Niết bàn. Khi ấy, trái đất rung động, người trời đều thương khóc vì biết rằng chỗ tựa nương của mình từ nay không còn nữa.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *